Phất cờ Nương tử
Nhạc và lời : PHẠM ĐĂNG KHƯƠNG
Ngày xưa trước Công Nguyên, giặc thù đem quân xâm chiếm nước ta. Ở nơi đất Phong Châu Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa giữ yên quê nhà! Trả thù vì chồng quyết ra tay, Nặng một lời nguyền đánh tan thây lũ quân nhà Hán!
Thần dân nén đau thương, ngày ngày luyện cung kiếm khắp muôn phương
Mộ binh khắp nơi nơi Bà Trưng võ nghệ khí phách oai phong một trời.
Ầm ầm ào kéo quân sang, Kẻ thù Tô……Định vẫn nghênh ngang lấn xâm cõi bờ !
Không thể ngồi yên nhìn quân thù dày xéo đất nước, Khói lửa tràn lan giục muôn người tiến về phía trước. Chiêng trống ầm ầm nổi lên, tung chí anh hào khắc tên Trên bành voi oai phong ra trận. Hai Bà Trưng nén cơn uất hận, Ngựa hí vang trời lớp lớp quân reo Nữ tướng phất cờ quân sĩ đi theo Chiến thắng ! Giặc bỏ chạy từng bầy binh lính Quyết phen này bắt ngay Tô Định. Thắng giặc rồi Hai Bà về đóng đô ở Mê Linh!
Nhưng giặc lại sang, vạn binh đoàn là lũ cướp nước. Mã Viện hèn thay, lòng dạ đầy những điều mưu chước. Nghênh chiến diệt giặc khắp nơi. Máu nóng muôn người trào sôi. Quân giặc kia cùng ta xung trận. Đất trời Nam bỗng nhiên nổi giận. Trận đánh long trời lở đất nổ ra, Nữ tướng một lòng cương quyết xông pha, Quyết…chiến !
Nhưng vì sức yếu Quân ta tan vỡ. Để giữ vẹn toàn khí tiết Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng Hát Giang ! Thương thay bậc liệt nữ xưa đem tấm thân ngà ngọc trắng trong, ôm cái chí tang bồng, một đời vì dân vì nước ! Thương thay phận gái nghìn xưa, dòng dõi Mê Linh dòng võ tướng ! Nghìn đời sau vẫn còn khắc ghi, Dòng Hát Giang đời đời xanh mãi với non sông Việt Nam!
Không thể ngồi yên nhìn quân thù dày xéo đất nước, Khói lửa tràn lan giục muôn người tiến về phía trước. Chiêng trống ầm ầm nổi lên, tung chí anh hào khắc tên. Trên bành voi oai phong ra trận Hai Bà Trưng nén cơn uất hận, Ngựa hí vang trời lớp lớp quân reo. Nữ tướng phất cờ quân sĩ đi theo Chiến thắng! Giặc bỏ chạy từng bầy binh lính. Quyết phen này bắt ngay Tô Định. Thắng giặc rồi Hai Bà về đóng đô ở Mê Linh!
LỜI BÌNH
Phất cờ nương tử
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân...
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Mùa xuân năm Canh Tý (40), cả vùng trời ngã ba sông Hồng, sông Hát sôi động. Bãi Trường Sa Châu lồng lộng cờ xí, đông đặc ba quân, gươm tuốt trần sáng quắc. Trống đồng thúc từng hồi rộn rã. Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị lẫm liệt trên mình voi. Tiếng hịch truyền sang sảng: “Ta cũng dòng dõi Tiên Rồng, cháu con Lạc tướng. Thương con đỏ sa xuống hầm sâu ngồi yên sao đặng. Hiệp lòng người dấy lên cờ nghĩa...”.
Lời hiệu triệu hun cháy lòng dân, âm vang mặt sóng cửa sông. Người bốn phương tiếp nối đổ về tụ hội. Lúc chủ tướng khoác nhung y trên mình voi xuất trận, có người khuyên nên cử lễ tang Thi Sách. Trưng Trắc trả lời:
- Việc binh cần quyền biến. Tang chồng ta để trong lòng. Còn dấy nghiệp trả nợ nước, báo thù nhà cần phải trang phục oai phong, gây khí thế phấn khích ba quân, khiến giặc nhìn thấy mà kinh sợ. Lo việc lớn phải thế !
Cuồn cuộn quân đi. Cuồn cuộn đồn lũy giặc bị sóng vùi. Nghĩa quân bắt Tô Định phải đền tội, thu lại 65 thành:
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta...
Trang sử hào hùng ấy mãi còn sống với non sông Việt Nam. Cho dù chỉ làm vua ba năm nhưng Hai Bà Trưng đã nêu cao tấm gương bất khuất, ý chí độc lập dân tộc cho muôn đời sau.
Thần tích kể rằng: Hai Bà là con sinh đôi của mẹ Man Thiện Trần Thị Đoan, người làng Nam Nguyễn (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Về sau, mẹ cũng là một tướng của con gái, từng đốc quân đi cứu viện, bị quân Mã Viện bao vây, mẹ đã nhảy xuống sông trẫm mình. ở quê mẹ vẫn còn ngôi mộ cổ gọi là Mả Dạ và miếu thờ người sinh ra hai nữ Anh hùng dân tộc.
Nơi Hai Bà Trưng dựng cờ nương tử nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Tương truyền đền Hát Môn thờ Hai Bà có từ cuối thế kỷ X. Lúc đầu chỉ là một am nhỏ, có diện mạo bề thế như bây giờ vào cuối thế kỷ XIX. Đền có tấm bia đá đặt trên lưng rùa dựng thời Vĩnh Tộ (1619-1629) ghi lại công tích của hai nữ Anh hùng cứu quốc. Trước cửa đền có ngôi miếu nhỏ thờ một cụ bà người làng, tương truyền đã làm bánh trôi khao quân thuở ấy. Hội đền vào ngày mồng 8-3 âm lịch, ngày Hai Bà tuẫn tiết ở căn cứ Cấm Khê (huyện Thạch Thất - Hà Tây) năm Quý Mão (43). Nơi ấy còn ngọn núi mang tên Vua Bà. Hội Hát Môn có tục cúng bánh trôi. Khay bánh xếp đủ 100 viên nhỏ. Cúng xong, dân làng bỏ 49 viên vào bông sen thả xuống sông Hát để trôi ra biển. Phải chăng đó là hình tượng nhắc lại thời vua Hùng đưa nửa số con xuống miền bể dựng nghiệp và cũng vì vậy mà có tên bánh trôi ?
Chéo xuống phía xuôi sông Hồng, ở bên bờ Bắc là làng Hạ Lôi, nơi lập đô của Hai Bà Trưng, nay thuộc xã Mê Linh, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Dấu tích thành Dền của Hai Bà xây đắp vẫn còn ở hai làng Hạ Lôi và Cư An.
Đền Hạ Lôi hướng cửa ra sông Hồng, trong có bức hoành sơn son thếp vàng nổi lên ba chữ Vạn cổ hương. Hội đền mở ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, ngày Hai Bà xuất quân trị giặc Hán. Một cuộc diễn tập trận như đám rước lớn từ đền ra sông. Thời trước, đám rước trận có đủ 150 quân nam, 150 quân nữ. Họ hát khúc ca tương truyền có từ xưa. Bên nữ hát: “Ta lên núi, đuổi đàn hươu, chị em ta nào quản sớm chiều”. Bên nam hát: “Ta lên núi, đuổi đàn nai, anh em ta khó nhọc bao nài”. Rồi họ đồng ca như một điệp khúc: “Nỗi niềm tâm sự than thở cùng ai. Đoái trông phương Đông nước rộng mênh mông. Đoái trông phương Tây đá trắng gồ ghề. Đoái trông phương Nam mây che đầu ngàn. Đoái trông phương Bắc núi cao ngất !”. Họ rước kiệu ra sông lấy nước rồi trở về đền.
Ở nội thành, Hai Bà được thờ ở đền Đồng Nhân. Đền vốn dựng từ thế kỷ XII đời vua Lý Anh Tông ở ngoài bãi sông Hồng. Tương truyền sau khi Hai Bà tuẫn tiết đã hóa thành tượng đá trôi theo dòng, đến bãi Đồng Nhân thì nổi lên và tỏa sáng. Dân làng rước tượng lên lập đền thờ phụng. Đó là ngày mồng 6 tháng Hai âm lịch và từ ấy thành ngày mở hội. Tượng Hai Bà đặt trong hậu cung lớn hơn người thật, bà chị mặc áo vàng, bà em mặc áo đỏ, tay giơ lên ngang mặt như đang cổ vũ quân dân. Hai bên là tượng 12 nữ tướng từng theo Hai Bà dựng nghiệp lớn như Lê Chân, Nàng Tía, ả Lã Nàng Đê... Năm 1819, bãi ngoài sông bị lở, dân làng dời đền vào khu Võ Sở, thôn Hương Viên hiện nay. Hội Đồng Nhân xưa có tục rước kiệu ra sông lấy nước làm lễ tắm tượng, có trò múa đèn do tốp nữ thực hiện theo nhịp trống đồng. ở bãi Đồng Nhân xưa, nay vẫn còn ngôi miếu thờ Hai Bà ghi lại dấu xưa.
Về dự các lễ hội của Hai Bà Trưng như một sự trở về nguồn, trở về với lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm anh hùng của dân tộc trong những nét lễ hội mùa xuân đậm đà bản sắc văn hóa Việt.
HNM
Nguồn: http://www.hanoimoi.com.vn/vn/53/40026/